Nếu ghé qua bất cứ diễn đàn nào về pro-audio, bạn sẽ dễ dàng gặp những “thớt” thảo luận rất sôi nổi và cũng rất… mù mờ về hiệu ứng Compression, thiết bị Compressor.
Hẳn là nó rất hữu ích? Đúng.
Hẳn là nó rất trừu tượng? Cũng đúng, nhưng chỉ khi bạn chưa đọc bài viết này.
Compression là hiệu ứng âm thanh giúp giảm bớt sự biến động về âm lượng của tín hiệu âm thanh. Thiết bị chính xử lý hiệu ứng này là Compressor và Limiter.
Trong phạm vi bài viết, tôi sẽ chỉ nói tới Compressor. Vì một khi hiểu được cơ chế làm việc của Compressor, bạn sẽ cảm thấy Limiter không còn gì bí ẩn nữa.
Đây là lần đầu bạn nghe về Compression, Audio Dynamics? Đọc ngay bài viết Dynamics 101: Audio Compression & Gating cơ bản của MIX trước.
Tại sao tôi lại phải dùng Compressor?
Tôi KHÔNG kể hết được vì đây là thiết bị có cách sử dụng linh hoạt nhất. Ứng dụng của nó CHỈ bị giới hạn bởi… khả năng sáng tạo và tay nghề của bạn mà thôi! True Story.
Dưới đây là 1 số lý do phổ biến.
Về cơ bản, Compressor xử lý hiệu ứng Compression. Nó giảm sự khác biệt về âm lượng giữa các âm thanh “to mồm” nhất và các âm thanh nhỏ nhất. Nhờ đó, âm lượng trung bình được ổn định và đẩy cao hơn khiến bản mix nghe “có vẻ” to hơn, hiện đại hơn, bóng bẩy hơn; nhạc cụ, giọng hát cũng nghe rõ ràng hơn, không còn cảnh nốt thì vừa, nốt thì nhỏ/to quá…
Ngoài ra, nếu sử dụng Compressor một cách hợp lý, bạn có thể khiến bản mix hoặc nhạc cụ nghe tự nhiên, có sức sống hơn.
Thậm chí, bạn có thể “nhuộm màu” (thay đổi chất âm) cho bản mix hoặc nhạc cụ một cách nhẹ nhàng mà không sợ bị méo âm thanh bởi đa số các Compressor đều có chất âm rất đặc trưng. Chúng sẽ “bơm” vào tín hiệu âm thanh đi qua mình “dấu ấn” đó với mức độ khác nhau, phụ thuộc vào việc bạn bắt Compressor tác động vào âm thanh nhiều hay ít.
Hết chưa?
Chưa. Còn rất rất nhiều cách ứng dụng khác nhau tùy thuộc vào nguồn âm thanh, nhạc cụ, yêu cầu sáng tạo của bản nhạc…
Cách sử dụng, lựa chọn compressor được coi là tuyệt chiêu của các kỹ sư âm thanh chuyên nghiệp. Tất nhiên, họ giấu như… mèo giấu $*&CS(@ và chỉ chia sẻ những kỹ thuật, thiết lập cơ bản nhất mà thôi. Thật may, điều đó không tồn tại ở Tạp chí MIX!
Tôi không kỳ vọng bạn sẽ được như họ ngay sau khi đọc bài viết này. Nhưng ít nhất, chúng ta phải hiểu rõ cách thức vận hành của Compressor để bắt đầu luyện tập, làm chủ, khai thác và bóc lột nó 1 cách tàn nhẫn nhất có thể!
Thông số điều khiển Compressor
Khi mới nhìn vào giao diện của 1 Compressor thông thường, bạn rất có thể sẽ “sốc” hoặc phát điên vì… không hiểu gì hết! Những thông số quan trọng nhất của Compressor đa phần lại hoàn toàn không thể ngay lập tức luận ra nhanh bằng cách tra từ điển.
Tùy vào từng Compressor, số lượng thông số được phép điều chỉnh có thể nhiều hoặc ít hơn danh sách dưới đây. Đừng lo, làm chủ được hết đống này bạn sẽ không phải lúng túng như gà mắc tóc trước bất cứ con compressor nào!
Threshold
Tôi đã nói với bạn Compressor là thiết bị điều khiển âm lượng một cách tự động chưa? Nếu chưa thì hãy nhớ giúp tôi nhé!
Compressor tự động phân tích tín hiệu âm thanh, nếu tín hiệu đó thỏa mãn tiêu chí bạn đặt ra, nó sẽ tự động tác động lên âm thanh. Threshold chính là tiêu chí đó!
Threshold có vai trò như hoa tiêu chỉ điểm báo cho Compressor biết khi nào được phép bắt đầu hoạt động. Nó quy định 1 mức cường độ âm thanh cụ thể nào đó (ví dụ: -23d), nếu cường độ âm thanh vượt quá ngưỡng đó, Compressor sẽ “nhào vô làm thịt” ngay và giảm cường độ xuống. Nếu cường độ âm thanh thấp hơn ngưỡng đó, Compressor sẽ tha chết, cho qua!
Lưu ý: Trong 1 số trường hợp, kể cả khi cường độ tín hiệu âm thành nằm dưới threshold 1 khoảng nào đó, Compressor vẫn sẽ kích hoạt. Điều này phụ thuộc vào tham số Knee (sẽ nói sau)
Hãy tưởng tượng, bạn đã bao giờ nói với ai: “Mày mà bước chân ra khỏi cửa, tao sẽ cho mày biết tay!” Vậy, bạn chính là Compressor. Vạch phân định giữa cửa ra vào và bên ngoài chính là ngưỡng báo hiệu cho ai đó nếu vượt qua là bị bạn làm thịt. Vạch đó là Threshold.
Tại sao tôi lại phải lắm mồm giải thích về Threshold như vậy? Vì đó là 1 trong 2 thông số quan trọng nhất của Compressor. Sự quan trọng này được minh chứng bởi các Compressor tối giản chức năng với chỉ 2 điều khiển duy nhất. Threshold luôn là 1 trong 2!
Nói 1 cách khác, thông số quyết định Compressor có làm việc hay không mà không phải cái quan trọng nhất thì là cái gì?
Compression Ratio
Compressrion Ratio (tỉ lệ nén) chính là thông số quan trọng thứ 2. Ratio quy định mức độ can thiệp (hay nói cách khác là độ… thô bạo) của Compressor lên cường độ tín hiệu âm thanh nếu cường độ tín hiệu vượt quá Threshold.
Ratio càng cao thì Compressor càng giảm mạnh cường độ tín hiệu âm thanh.
Đây là một thông số hay gây hiểu nhầm cho người mới bắt đầu. Hãy nhớ Ratio là tỷ lệ, không phải là một con số cố định nhằm ám chỉ số dB bị giảm đi bởi Compressor đâu nhé! 😉
Ratio của Compressor thường được biểu diễn dưới dạng n:1 (ví dụ: 1:1, 2:1, 4:1, 5:1).
Giả sử Ratio là 4:1, khi tín hiệu vượt quá threshold 4dB, Compressor sẽ giảm cường độ tín hiệu âm thanh để nó chỉ vượt quá threshold 1/4 của 4dB, tức là 1dB. Tương tự, nếu tín hiệu vượt quá threshold 8dB, Compressor sẽ giảm cường độ để tín hiệu chỉ vượt quá threshold 1/4 của 8dB, tức là 2dB.
Hãy làm phép tính đơn giản, số dB mà Compressor cho phép cường độ tín hiệu âm thanh vượt ngưỡng Threshold = 1/n.
Ratio 1:1 là tỉ lệ khá đặc biệt vì khi đó Compressor sẽ… không làm gì cả, để im cho tín hiệu đi qua.
Chắc hẳn bạn đang thắc mắc Ratio như thế nào được coi là nhẹ, vừa và mạnh? Theo kinh nghiệm của bản thân tôi, 2:1 là tỉ lệ nén nhẹ nhàng. Từ 3:1 đến 4:1 là tỉ lệ nén vừa phải. 5:1 đến 8:1 trở lên là tỉ lệ nén mạnh.
Từ 10:1 trở lên tới ∞:1 (∞ là dương vô cực), Compressor được coi như 1 limiter. Tại ratio ∞:1, Compressor sẽ trở thành BrickWall Limiter và không cho tín hiệu vượt quá Threshold nữa.
Lưu ý của MIX: Với Compressor có cả chế độ Expander như Waves C1, “n” dương là chế độ Compressor, “n” âm là chế độ Expander.
Hãy nghe ví dụ sau với lần lượt âm thanh gốc, ratio 1,5:1, 3:1, 6:1 và ∞:1
Trong 1 số thiết lập hoặc thiết kế Compressor cụ thể, Compressor vẫn sẽ được kích hoạt dù cường độ tín hiệu chưa đạt tới Threshold. Điều này 1 lần nữa phụ thuộc vào tham số Knee (nói ở phía dưới)
Attack
Ví dụ bạn đã căn xong Threshold cũng như Ratio chẳng hạn. Với cường độ audio hiện tại, theo như ratio đã căn, Compressor sẽ “ăn thịt” mất 3dB của tín hiệu gốc. Nhưng nó ko bụp 1 cái giảm đi 3dB ngay, như vậy sẽ rất thiếu tự nhiên. Thay vì thế, Compressor từ từ giảm dần cường độ của tín hiệu cho tới khi nó đạt được mục đích (cắt đi 3dB). Thời gian của quá trình này nhanh hay chậm sẽ bị ảnh hưởng bởi Attack (thường tính bằng mili-giây).
Nói 1 cách khác Attack ảnh hưởng tới độ nhạy, độ chính xác của Compressor trong việc “chộp lấy” và xử lý tín hiệu audio.
Hình trên minh họa quá trình chuyển đổi từ khi tín hiệu ở dạng nguyên gốc sang bị nén hoàn toàn (tức là compressor giảm đi số dB đúng như ratio đã chỉ định). Attack Time đôi lúc được viết dạng Attack Phase, đều có nghĩa là giai đoạn mào đầu của quá trình nén. Trên compressor bạn chỉnh Attack là 10ms thì chưa chắc Attack Phase sẽ luôn diễn ra trong 10ms mà có thể chậm hơn hoặc nhanh hơn, tùy vào số dB compressor cần giảm đi của tín hiệu gốc nhiều hay ít.
Lý do tại sao? Vì trong thực tế sử dụng, hãng sản xuất sẽ KHÔNG thể nào biết trước được bạn căn Threshold, ratio.. là bao nhiêu. Do đó, nếu Attack Phase luôn xảy ra trong 1 thời gian cố định như bạn đã căn (ví dụ 5ms) thì đôi khi sẽ quá chậm với số dB bị nén nhỏ và sẽ quá nhanh với số dB bị nén lớn. Người dùng sẽ rất khó kiểm soát công cụ của mình.
Bởi vậy, người ta lấy 1 giá trị tham chiếu để quy định Compressor mất bao nhiêu thời gian để giảm đi số dB đó (thường là 10dB).
Để cho dễ hiểu tôi xin lấy ví dụ: nếu bạn để Attack là 5ms, và nhà sản xuất thiết lập giá trị tham chiếu là 10dB. Điều đó có nghĩa là Compressor sẽ mất 5ms để giảm đi 10dB, mất 10ms để giảm đi 20dB với CÙNG 1 giá trị Attack 5ms.
Nhở đó, âm thanh sẽ tự nhiên hơn rất nhiều vì khi giảm đi số dB lớn hơn, Compressor sẽ thực hiện Attack Phase trong quãng thời gian dài hơn, tác động sẽ mượt mà hơn!
Một số Compressor chỉ cho phép bạn lựa chọn giữa Fast Attack và Slow Attack (ví dụ SSL Channel Compressor). Tùy nhà sản xuất và Model, fast attack thường rơi vào khoảng 20-1000 micro giây (1 micro giây bằng 1/1.000.000 giây). Slow Attack thường dao động từ 20-50 mili giây.
Nghe ví dụ sau với âm thanh gốc, attack nhanh và attack chậm:
Attack nhanh (dưới 10ms) sẽ làm giảm “công lực” của âm thanh và ngược lại. Ví dụ: Bạn xử lý âm thanh tiếng đấm vào tường với attack nhanh, tiếng đấm này nghe sẽ “yếu sinh lý” hơn, thiếu tự nhiên hơn do compressor đã gần như ngay lập tức can thiệp, làm yếu đi giai đoạn mào đầu của tiếng đấm đó (vốn mang nhiều năng lượng nhất).
Nếu bạn dùng Attack chậm (20-50ms), tiếng đấm nghe có vẻ mạnh hơn, uy lực hơn vì nó tác động chậm hơn, phần năng lượng mạnh nhất của tiếng đấm ít bị sờ mó hơn. Thay vào đó, nó tác động chủ yếu vào phần âm thanh tiếng đấm ngân ra sao. Đủ dễ hiểu chưa nhỉ?
Release
Ngược lại với Attack, Release ảnh hưởng tới khoảng thời gian Compressor cần để chuyển tín hiệu từ dạng nén hoàn toàn thành dạng bình thường (không bị nén). Ví dụ: Nếu compressor có gọt đi của bạn 3dB, sau khi cường độ âm thanh không còn thỏa mãn tiêu chí do Threshold đặt ra, Compressor sẽ thực hiện giai đoạn Release (release phase) để trả lại 3dB đã mất giúp tín hiệu audio phục hồi lại mức âm lượng thu/phát như bình thường.
Tương tự như Attack, giả sử Release bạn để là 30ms – điều này KHÔNG có nghĩa là Compressor sẽ luôn thực hiện quá trình Release trong vòng 30ms. Nó phụ thuộc vào số dB mà Compressor đã cắt đi của tín hiệu gốc và phụ thuộc vào giá trị tham chiếu của hãng sản xuất nữa.
Ví dụ: Nếu Compressor thịt của bạn 10dB, với cùng 1 giá trị Release bạn đã căn từ trước, quá trình phục hồi âm lượng thu/phát cho tín hiệu audio gốc sẽ mất ít thời gian hơn so với khi Compressor thịt của bạn 20dB.
Bạn hãy xem kỹ lại phần Attack để hiểu rõ hơn lý do tại sao nhé!
Khi thao tác với Compressor, các kỹ sư âm thanh thường để Release ngắn nhất có thể trước khi nghe thấy âm thanh trở nên thiếu tự nhiên, khó chịu (trừ khi đó là điều họ muốn).
Lý do? Vì khi Compressor đang trong quá trình thực hiện Release Phase, nếu âm thanh gốc lại 1 lần nữa thỏa mãn tiêu chí do Threshold đặt ra, Compressor vẫn kệ cmn mà điềm nhiên thực hiện tiếp giai đoạn Release của mình tới khi xong thì nó mới bắt đầu theo dõi cường độ tín hiệu để tiếp tục thực hiện chu kỳ tiếp theo của mình. Điều này dẫn tới việc Compressor sẽ có hành vi tác động không nhất quán đối với các nốt nhạc/âm thanh khác nhau của track Audio hiện tại, khiến âm thanh nghe thiếu tự nhiên.
Tuy vậy, nếu biết cách sử dụng Release dài, Compressor lại giúp bạn giải quyết khá nhiều vấn đề trong bản mix và có các hiệu ứng thú vị (bài đã quá dài, xin để lúc khác nói tới vấn đề này).
Hiệu ứng Pumping và Breathing
Pumping: Khi Attack và Release quá ngắn hoặc kết hợp với nhau không hợp lý, sự thay đổi về âm lượng diễn ra đột ngột hoặc không tự nhiên dẫn tới cảm giác âm lượng thay đổi quá rõ ràng. Nói 1 cách tượng hình, bạn sẽ thấy âm thanh cứ như nhảy bổ vào mặt bạn rồi thụt lại, sau đó tiếp tục lặp đi lặp lại như thế. Tuy nhiên, khi sử dụng đúng trường hợp, đây lại là một hiệu ứng rất thú vị. Bạn hãy nghe lại những bản classic rock năm 60-70 để cảm nhận hiệu ứng pumping trong tiếng trống của họ. Pumping là 1 phần của Rock’n’Roll, và tới thời nay, nếu bạn làm EDM, hãy thử master effect này xem sao nhé.
Breathing: Tương tự như Pumping nhưng sự không ổn định về âm lượng chỉ diễn ra với các tần số cao (thường là tiếng ồn, tiếng thở trong bản mix) do đó tạo ra cảm giác có tiếng ai đó đang… thở. Cách minh họa dễ nhất? Bạn hãy nén vocal mạnh tay với attack ngắn, release ngắn và lắng nghe sự thay đổi trong tiếng thở của ca sĩ nhé.
Với người mới tập mix nhạc mà phải giao sản phẩm cho khách, tôi khuyên các bạn nên dùng các compressor có chức năng Auto Release như LA-2A, compressor mặc định của Cubase, Fabfilter Pro-C cho an toàn. Trong đa số các trường hợp thông thường, Auto-Release cho kết quả tương đối tốt.
Nghe ví dụ sau với lần lượt là âm thanh gốc, release quá nhanh và release chậm vừa phải:
Knee
Tra từ điển, Knee là… đầu gối. “Dễ hiểu” thật! =.=
Khi tiếp xúc với Compressor nhiều, bạn sẽ gặp không ít lần tham số trừu tượng (nhưng cực kỳ hữu dụng) này. Hiểu 1 cách nôm na, Knee giúp bạn điều chỉnh độ mượt mà và tự nhiên khi compressor biến đổi tín hiệu âm thanh từ trạng thái bình thường (không nén / uncompressed) sang trạng thái bị nén (compressed).
Có 3 loại Knee phổ biến: Hard Knee, Medium Knee, SoftKnee. Ở chế độ Soft Knee, âm thanh chuyển từ trạng thái thường sang bị nén 1 cách nhẹ nhàng, từ từ hơn rất nhiều so với Hard Knee. Medium Knee là mức nằm giữa.
Hay vãi! Làm sao mà nó làm được điều đó? Rất đơn giản. Như tôi đã chia sẻ trong phần Attack và Release, bất kỳ sự thay đổi cường độ tín hiệu quá đột ngột nào cũng sẽ dẫn tới việc âm thanh bị mất tự nhiên hoặc nghe rõ là có compressor hoạt động (điều này không phải lúc nào cũng xấu).
Khi thiết lập Soft-Knee hoặc Medium Knee, Compressor sẽ tác động khi tín hiệu còn chưa kịp chạm tới Threshold và tăng dần ratio khi cường độ tín hiệu tăng dần. Compressor sẽ đạt ratio tối đa (là mức chúng ta quy định) khi cường độ tín hiệu vượt quá Threshold.
Điều này dẫn tới việc Compressor sẽ tăng dần độ thô bạo theo mức tăng cường độ tín hiệu. Tín hiệu càng to, Compressor hoạt động càng mạnh (ratio/độ thô bạo tối đa là mức chúng ta quy định từ trước bằng thông số Ratio). Kết quả là sự chuyển biến về cương độ âm thanh mượt mà, tự nhiên hơn.
Một số Compressor cực linh hoạt (Sonalksis SV315 MK2, DMG Audio Compassion…) còn cho phép bạn điều chỉnh kích cỡ của Knee bằng dB (ví dụ Knee 10dB, 14dB, 24dB…)! Kích cỡ của Knee ảnh hưởng tới việc Compressor sẽ bắt đầu hoạt động khi cường độ tín hiệu nằm dưới Threshold ít hay nhiều. Tất nhiên, Knee càng to thì âm thanh sẽ càng tự nhiên. Tuy nhiên, 1 lần nữa, nhiều khi âm thanh tự nhiên không phải là thứ chúng ta cần. Do đó, bạn hãy thử nghiệm và tự đánh giá xem lúc nào thì dung Soft Knee, lúc nào thì dùng Hard Knee.
Gợi ý sử dụng:
- Bạn hãy thử Soft-Knee với các âm thanh cần sự tự nhiên như Vocal trong 1 bản Pop Ballad nào đó
- Với Rock Drums, Hard-Knee là lựa chọn tốt vì lúc này sự tự nhiên trong âm thanh không quá quan trọng. Cái ta cần là sự dữ dội. Điều này giải thích tại sao SSL Channel Compressor là một trong những công cụ yêu thích của các mixing engineer khi xử lý các ca khúc thuộc thể loại nhạc này. Trên máy tính, bạn có thể làm quen với âm thanh của Hard Knee Compressor bằng cách gọi plugin Waves SSL Channel.
Make-up Gain
Nút Make-up Gain (cách viết khác là Output Gain hoặc là Gain) cho phép bạn điều chỉnh cường độ tín hiệu đầu ra của Compressor. Tham số này tự giải thích cho tính năng của nó rồi.
Gain Reduction Meter
Đại đa số Compressor cho bạn biết số dB bị cắt đi bởi Compressor là bao nhiêu qua công cụ đo cường độ tín hiệu tên là Gain Reduction (viết tắt là GR). Nhờ đó, bạn dễ dàng theo dõi xem lúc nào thì Compressor hoạt động/không hoạt động, hoạt động nhanh hay chậm, tác động ít hay nhiều bằng… mắt.
Một số Compressor có nút Auto Make-up. Trong khi căn chỉnh Compression, tôi khuyên bạn không nên sử dụng vì dễ lầm tưởng rằng mình đang làm cho âm thanh hay hơn.
Lời khuyên của MIX: Hãy theo dõi sát sao giá trị của Gain Reduction trong suốt quá trình sử dụng Compressor. Thông thường, nếu Gain Reduction vượt quá 6dB, bạn đã quá tay. Nhưng tóm lại, người bạn tốt nhất vẫn là đôi tai. Đôi khi 5-7dB Gain Reduction cũng không ảnh hưởng gì nếu nghe vẫn sướng. :v
Các loại Compressor phổ biến
Cùng các thông số, điều khiển ở trên, tuy nhiên, với các loại compressor khác nhau, cách thức chúng tác động lên âm thanh cũng khác nhau. Việc lựa chọn loại Compressor quan trọng không kém việc tinh chỉnh các thông số Compressor. Tuy nhiên, sự khác biệt về âm thanh không quá lớn như ngày và đêm, gái ngực bự và “màn hình phẳng” nên những bạn mới vào khó nhận biết được.
FET
Field Effect Compressors sử dụng bóng bán dẫn để giả lập âm thanh được xử lý qua bóng đèn điện tử. Ưu điểm của FET Compressor là độ tin cậy, chính xác cao, phản ứng nhạy với âm thanh, âm thanh sạch hơn và ít “nhuộm màu” âm thanh.
Khi compress Drums, hãy thử 1 vài FET Compressor sau đó chuyển sang các loại compressor khác. Bạn sẽ thấy sự khác biệt.
VCA
Voltage Controlled Amplifier compressor sử dụng mạch điện tích hợp. Ưu điểm của VCA Compressor là độ chính xác rất rất cao. Ví dụ: dbx series 160
Tín hiệu đi qua VCA Compressor hầu như giữ nguyên bản chất âm và ít bị méo hơn so với các loại Compressor khác. Bởi vậy, VCA Compressor phù hợp với rất nhiều nguồn âm thanh, tình huống sử dụng.
Tube/Valve
Điểm khác biệt lớn nhất giữa Tube/Valve Compressor với VCA Compressor, FET Compressor là thời gian attack và release chậm hơn. Do đặc điểm của bóng đèn điện tử, âm thanh đi qua sẽ ít nhiều bị “nhuộm màu”, trở nên ấm áp, dày dạn hơn.

Tube-Tech CL1B là Tube Compressor sử dụng thiết kế tương tự compressor huyền thoại LA-2A của Teletronix
Hãy thử Valve Compressor với Vocal, bạn sẽ thấy điều “kỳ diệu” xảy ra.
Optical/Opto
Optical/Opto Compressor sử dụng mạch điện cảm ứng ánh sáng để điều khiển cường độ nén âm thanh. Khi cường độ tín hiệu âm thanh cao, ánh sáng phát ra mạnh hơn bao hiệu cho tế bào quang học (Optical Cell) giảm cường độ tín hiệu âm thanh mạnh hơn. Thiết kế này khiến Opto Compressor kém nhạy hơn so với các loại Compressor khác. Tuy nhiên, âm thanh nó tạo ra rất tự nhiên và ấm áp.
Chào mừng bạn đến với vùng đất của những người bị ám ảnh bởi Compression
Sau khi hiểu hết cơ chế làm việc, ứng dụng của Compression, bạn đã sẵn sàng đổ hàng trăm giờ luyện tập để làm chủ được Compressor chưa? Tôi báo trước là càng tập bạn sẽ càng nghiện. Đỉnh cao của sự nghiện ngập này là “dí” compressor vào mọi nguồn âm thanh có thể! 😐
Điểm nguy hiểm của Compressor chính là sự khác biệt khó nhận ra ngay giữa âm thanh gốc và âm thanh đã xử lý nếu đôi tai bạn chưa được rèn luyện.
Để tránh cho bạn phải tốn quá nhiều thời gian luyện tập một cách vô tội vạ, tôi sẽ hướng dẫn cách thiết lập, căn chỉnh Compressor trong 1 bài viết khác.